Ảnh: Thy Na |
Mùa về, mấy bà, mấy mẹ lại bắt đầu lên kế hoạch ngồi khều ốc chép hàng giờ liền. Người phân công chọn mua, người tìm địa điểm, người tranh thủ bứt vài cọng gai rồi cùng nhau khều, cùng nhau “tám”. Những câu chuyện về nếp nhà, về những phận người trong cuộc sống thường nhật được các bà, các mẹ say sưa kể. Thi thoảng lại có người mới sáp vào nhập hội. Và lẽ thường, những tô ốc đủ màu cứ vơi dần theo những câu chuyện không hồi kết.
Ốc chép sống gần bờ nên chỉ cần đi dạo cạnh mép nước là có thể bắt được rất nhiều. Với những chiếc rổ được đan thật khít, một xô nhựa lớn, dân chài sẽ đãi cát để thu hoạch ốc rồi cho vào xô lớn chở về. Đến nhà, toàn bộ ốc được ngâm trong nước mặn cho nhả bớt cát biển rồi đổ vào nồi luộc cùng sả, lá chanh, gừng và mấy lát ớt tươi. Sau khi ốc chín, nêm thêm một ít gia vị rồi đưa ra chợ bán. Theo người dân quê tôi, ốc khi cho vào nước liên tục chép miệng nhả cát nên mới có tên là ốc chép.
Ngay từ ngày bé, như những đứa trẻ khác, tôi vẫn thường bị la vì chuyên quậy phá những tô ốc đủ màu. Hình ảnh khóe môi các bà, các mẹ vương lớp vảy vàng nhàn nhạt đẩy ra từ đầu ốc khiến tôi vô cùng thích thú. Tôi thường gọi họ là những tay khều ốc và lơ vảy chuyên nghiệp. Trẻ nhỏ là thế, nhưng khi lớn lên, hễ thấy tô ốc chép thì phản xạ ngồi hàng giờ liền lại tái phát, nhưng không phải để phá phách mà để thưởng thức vị ốc chép béo ngọt, thơm lừng mùi sả gừng, đậm đà vị tiêu muối ớt.
Sau những cuộc “đại chiến”, vỏ ốc chép vương nắng cả một góc sân. Các bà gom lại rửa thật sạch rồi tự tay làm vật dụng trang trí. Đính vỏ ốc thành hình cánh hoa trên tách trà, xâu thành vòng đeo tay hay chuỗi hạt cho mấy đứa trẻ. Thậm chí kết thành rèm cửa để mỗi khi gió lùa, tiếng vỏ ốc chép va đập vào nhau nghe bên tai thật êm.
Thy Na